SKKN Tích hợp liên môn Ngữ Văn, Lịch sử, Địa lí, Văn hóa học, Sinh thái học trong bài đọc - hiểu Văn bản Người lái đò Sông Đà (Trích) của Nguyễn Tuân
Với mục tiêu giáo dục phổ thông là giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân..., chương trình giáo dục phổ thông ban hành kèm theo quyết định số 16/ 2006/QĐ- BGDĐT ngày 5/5/2006 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng đã nêu: Phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc trưng môn học, đặc điểm đối tượng học sinh, điều kiện của từng lớp học; bồi dưỡng cho học sinh phương pháp tự học, khả năng hợp tác; rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức liên môn vào giải quyết các tình hình thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú và trách nhiệm học tập cho học sinh. Việc thực hiện đổi mới chương trình giáo dục phổ thông đòi hỏi phải đổi mới đồng bộ từ mục tiêu, nội dung, phương pháp, phương thức dạy học đến cách thức đánh giá kết quả dạy học, trong đó khâu đột phá là đổi mới phương pháp dạy học. Một trong những đổi mới về phương pháp daỵ học môn Ngữ văn hiện nay là chú trọng yêu cầu tích hợp theo đặc trưng thể loại và tích hợp kiến thức liên môn. Theo yêu cầu đổi mới đó, ở mỗi bài khi dạy học, giáo viên và học sinh cần chú ý kết hợp cả tri thức, cả kĩ năng về Văn, Tiếng Việt và Làm văn; đặc biệt cần chú ý tới tính đặc trưng về thể loại; đồng thời phải chú ý vận dụng kết hợp kiến thức của các môn học, ngành học khác. Nhưng trong các bài học cụ thể, kể cả sách giáo khoa và sách bài tập Ngữ văn của học sinh chưa chú ý tới yêu cầu tích hợp này. Đó là thiếu sót không chỉ ở một bài mà ta còn có thể thấy ở nhiều bài trong chương trình Ngữ văn hiện nay.
Trong chương trình Ngữ văn THPT, các bài đọc - hiểu về văn bản tùy bút chiếm số lượng rất ít so với các văn bản thơ, truyện. Ở chương trình Ngữ văn 12, học sinh được tìm hiểu hai văn bản: Người lái đò Sông Đà(trích) của Nguyễn Tuân và Ai đã đặt tên cho dòng sông? ( trích) của Hoàng Phủ Ngọc Tường.
Nguyễn Tuân (1910-1987) là cây bút văn xuôi tài hoa độc đáo của nền văn học Việt Nam hiện đại. Ông đặc biệt thành công ở thể loại tuỳ bút, đưa thể tùy bút, bút kí đạt tới trình độ nghệ thuật cao với những đặc sắc riêng. Người lái đò Sông Đà in trong tập kí Sông Đà (1960) của Nguyễn Tuân. Tập tùy bút này gồm 15 bài tùy bút và một bài thơ ở dạng phác thảo. Người lái đò Sông Đà là một trong những áng văn tiêu biểu nhất của tập Sông Đà, thể hiện những nét đặc sắc trong nghệ thuật tùy bút của Nguyễn Tuân. Vào những năm 1958- 1960, Đảng và nhà nước ta có chủ trương phát triển kinh tế, văn hóa miền núi Tây Bắc. Thực tiễn xây dựng cuộc sống mới ở vùng cao đã đem lại cho Nguyễn Tuân và nhiều nghệ sĩ đương thời nguồn cảm hứng sáng tạo dạt dào. Tác phẩm là kết quả của nhiều dịp Nguyễn Tuân đến với Tây Bắc trong thời kì kháng chiến chống Pháp, đặc biệt là chuyến đi thực tế Tây Bắc năm 1958. Tác phẩm có sức sống lâu bền vì nó không đơn giản minh họa cho một chủ trương, chính sách mà bộc lộ những cảm xúc, suy ngẫm của nhà văn về cuộc sống, xã hội, con người; từ một thời mà nói đến được nhiều thời.
Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Tích hợp liên môn Ngữ Văn, Lịch sử, Địa lí, Văn hóa học, Sinh thái học trong bài đọc - hiểu Văn bản Người lái đò Sông Đà (Trích) của Nguyễn Tuân

ất của nông nghiệp là sống định cư nên con người ít di chuyển. Có đi thì cũng đi rất gần. Hoạt động chủ yếu của con người nông nghiệp Việt Nam là đi từ nhà ra ruộng, lên nương. Việt Nam là vùng sông nước, kênh mương chằng chịt và bờ biển dài. Bởi vậy, vấn đề đi lại từ ngàn xưa chủ yếu là đường thủy; và người Việt xưa giỏi bơi lặn, thạo thủy chiến, giỏi dùng thuyền. Sông ngòi phong phú thuận tiện cho giao thông đường thủy phát triển lại gây khó khăn cho giao thông đường bộ. Vì vậy Việt Nam hay có những cầu tre, cầu dừa, cầu dây . . . chính vì thế mà hình ảnh sông nước ăn sâu vào tâm thức của người Việt Nam chớ thấy sóng cả mà ngã tay chèo, ăn cỗ đi trước lội nước theo sau, thuyền theo lái gái theo chồng. Người Việt hay nói chìm đắm trong suy tư, thời gian trôi nhanh, ăn nói trôi chảy, thân bọt bèo. Ngay cả khi đi bộ cũng nói theo kiểu đi trên sông: lặn lội đến thăm nhau, quá giang. .. Những người sống bằng nghề sông nước thường lấy ngay thuyền, bè làm nhà ở. Nhiều gia đình quần tụ lập nên xóm chài, làng chài. Ấn tượng với thiên nhiên sông nước mạnh đến nỗi nhà của người Việt thường được làm với chiếc mái cong mô phỏng hình thuyền. Chiếc mái cong ngoài hình ảnh con thuyền không có tác dụng thực tế gì cho nên về sau người bình dân thường làm thẳng cho giản dị, chỉ có những công trình kiến trúc lớn mới làm mái cong cầu kì. Bên cạnh việc xây nhà thì chọn hướng nhà cũng là cách tận dụng tối đa thế mạnh của môi trường tự nhiên để ứng phó với nó. Hướng nhà tiêu biểu là hướng nam- vừa tránh được cái nóng từ phía tây, cái bão từ phía đông, gió từ phía bắc và tận dụng gió mát từ phía Nam: gió Nam chưa nằm đã ngáy hay cất nhà quay cửa vô Nam, quay lưng về chướng không làm cũng có ăn. Ngoài ra người Việt cũng rất quan tâm đến việc chọn hàng xóm láng giềng. Đến thời kinh tế hàng hóa phát triển, người Việt còn chú ý chọn vị trí giao thông thuận tiện nhất cận thị, nhị cận giang những đô thị có tốc độ phát triển nhanh đều là những đô thị gần biển, sông thuận tiện giao thông. Con người thời đại này quan niệm thiên, địa, nhân nhất thể “thiên thời địa lợi nhân hòa”. Con người, trời dất đều có cấu trúc âm-dương, có chung một cấu trúc vật chất. Nếu trời đất vận hành theo qui luật âm- dương hài hòa, ngũ hành biến hóa thì con người cũng vận hành theo qui luật đó. Sự biến chuyển của vật chất là một quá trình cuối cùng trở về lại cái ban đầu: thủy sinh mộc, mộc sinh hỏa, hỏa sinh thổ, thổ sinh kim, kim sinh thủy, thủy sinh mộc. Cứ như vậy vật chất biến hóa theo chu kì. Quan niệm đó dẫn đến lối giải thích duy tâm: mọi tài năng của con người đều do trời phú mà có. Nhìn chung, con người đặt trong mối quan hệ với thiên nhiên là một quan hệ gắn bó không thể tách rời. Thiên nhiên nuôi sống con người, giúp con người chống lại những thế lực ngoại xâm nhưng thiên nhiên cũng là thế lực mà con người phải chống đỡ. Trong giai đọan trung đại Việt Nam, đối với con người thiên nhiên là một lực lượng siêu nhiên, thần thánh và con người cũng đã có những lúc run sợ trước những thế lực đó. Nhưng dần dần họ đã tìm ra nhiều cách để chinh phục thiên nhiên để phục vụ cho đời sống của mình. Cũng như những loài linh trưởng khác, con người là một sinh vật xã hội, sống bầy đàn. Hơn thế nữa, con người cũng rất thành thạo việc sử dụng ngôn ngữ trong giao tiếp, để biểu lộ những ý kiến riêng của mình và trao đổi thông tin. Con người tạo ra những xã hội phức tạp trong đó có những nhóm hỗ trợ nhau và đối nghịch nhau ở từng mức độ, có thể từ những cá nhân trong gia đình cho đến những quốc gia rộng lớn. Giao tiếp xã hội giữa con người và con người đã góp phần tạo nên những truyền thống, nghi thức, quy tắc đạo đức, giá trị, chuẩn mực xã hội và cả luật pháp. Tất cả cùng nhau tạo nên những nền tảng của xã hội loài người. Con người cũng rất chú ý đến cái đẹp và thẩm mỹ, cùng với nhu cầu muốn bày tỏ mình, đã tạo nên những sự đổi với về văn hóa như nghệ thuật văn chương và âm nhạc. Con người cũng được chú ý ở bản năng muốn tìm hiểu mọi thứ và điều khiển tự nhiên xung quanh, tìm hiểu những lời giải thích hợp lí cho những hiện tượng thiên nhiên qua khoa học, tôn giáo, tâm lý và thần thoại. Bản năng tò mò đó đã giúp con người tạo ra những công cụ và học được những kĩ năng mới. Trong giới tự nhiên, con người là loài duy nhất có thể tạo ra lửa, nấu thức ăn, tự may quần áo, và sử dụng các công nghệ kỹ thuật trong đời sống. Thực tế khoa học và đời sống đã chứng minh rằng con người hoàn toàn có khả năng ching phục thiên nhiên. Các công trình thủy điện của Việt Nam, nhất là công trình thủy điện Hòa Bình chính là thành công của con người trong việc chinh phục, chế ngự thiên nhiên. Công trình thủy điện Hòa Bình góp phần quan trọng vào việc phòng chống lũ lụt cho vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng trong đó có thủ đô Hà Nội. Nhà máy thủy điện Hòa Bình là nguồn cung cấp điện chủ lực của toàn bộ hệ thống điện Việt Nam. Năm 1994, cùng với việc khánh thành nhà máy và tiến hành xây dựng đường dây 500KV Bắc - Nam từ Hòa Bình tới trạm Phú Lâm (Thành phố Hồ Chí Minh) hình thành một mạng lưới điện quốc gia. Công trình này góp phần đắc lực trong việc cung cấp nguồn điện cho miền Nam và miền trung Việt Nam. Hơn nữa, đập thủy điện Hòa Bình đóng vai trò quan trọng vào việc cung cấp nước tưới cho sản xuất nông nghiệp ở vùng hạ lưu trong đó có đồng bằng sông Hồng, nhất là trong mùa khô; điều tiết mực nước sông đồng thời đẩy nước mặn ra xa các cửa sông. Đồng thời, thủy điện sông Đà còn giúp chúng ta cải thiện việc đi lại bằng đường thủy ở cả thượng lưu và hạ lưu. Năm 2004 công trình tượng đài chiến thắng Điện Biên Phủ được vận chuyển chủ yếu bằng con đường này. Tiến bộ khoa học cùng với việc phát minh các công nghệ mới trong thế kỷ XX đã cho ra đời nhiều ứng dụng hầu thỏa mãn nhu cầu mà con người cần đến hay nghĩ đến. Con người ngày càng chìm đắm trong những khám phá mới, tìm thêm nhu cầu mới, dù cần thiết hay không cần thiết cho cuộc sống. Cuộc chạy đua do chính con người đặt ra dường như không có điểm đến! Và hơn nữa, cuộc đua này càng kích thích thêm tham vọng ngự trị của con người. Với các khả năng khoa học hiện có, con người hầu như làm chủ thiên nhiên trong việc chế tạo các sản phẩm mới để tăng thêm nhu cầu và thị hiếu của nhân loại. Song đôi khi những nhu cầu đó có lẽ không cần thiết và vô ích, nếu không nói là làm thoái hóa thêm quá trình phát triển của con người cũng như huỷ hoại tài nguyên thiên nhiên và công sức con người một cách phí phạm. Sự cân bằng của vạn vật đã được sắp xếp theo một thứ tự nào đó của thiên nhiên. Từ ngàn năm trước nếu nhìn lại, khi khoa học chưa phát triển nhiều và con người có một hiểu biết rất hạn chế, thiên nhiên vẫn ưu đãi và tạo dựng ra một đời sống tương đối an lành cho con người. Số mầm bệnh không nhiều so với hiện tại, và sự xuất hiện những mầm bệnh mới chính là sản phẩm mặt trái của khoa học và con người. Con người đã lạm dụng khoa học, và với mặc cảm tự tôn, họ tin rằng sẽ chiến thắng được thiên nhiên, kiểm soát thiên nhiên, và luôn cố gắng thỏa mãn lòng kiêu hãnh của mình qua việc chinh phục thiên nhiên. Tuy nhiên, chúng ta thấy sau cùng, thiên nhiên đã đáp lại rằng, hãy còn quá nhiều ẩn số mà con người chưa thể giải đáp được! Thiên nhiên đã vận hành tuần hoàn, có chu kỳ thời tiết mưa, nắng, bão, lụt...cho từng khu vực trước kia; nhưng hôm nay, con người đã làm đão lộn các chu kỳ trên một cách không kiểm soát nổi, và hiện tượng hâm nóng toàn cầu và hiệu ứng nhà kính là hai hậu quả trước mắt mà con người phải gánh chịu qua suy nghĩ làm chủ thiên nhiên của mình. Hiện tựơng hạn hán, bão lụt xảy ra thường xuyên hơn không còn theo một chu kỳ tuần hoàn nào có thể tiên liệu như trước kia cách đây vài thập niên nữa. Bầu khí quyển tiếp tục nóng dần và có khuynh hướng tăng trưởng nhanh hơn theo thời gian. El Nino là hiện tượng nước biển bị hâm nóng theo chu kỳ tự nhiên khoảng tám đến mười năm vào các thập niên trước; nay chu kỳ trên đã bị thu ngắn lại còn khoảng 4- 5 năm và không có những dấu hiệu báo trước rõ ràng như xưa nữa. Tóm lại, con người càng thách thức thiên nhiên càng phải gánh thêm nhiều hậu quả không thể lường trước đựơc! Có thể nói, cuộc thách thức giữa con người và thiên nhiên ngày càng gay gắt, và nếu không kịp điều chỉnh đúng mức và như con đường chúng ta đang đi hiện nay, chúng ta có thể sẽ đi vào ngõ cụt. Vì thiên nhiên hay môi trường sống của con người tự nó đã được sắp xếp theo một hợp lý nào đó và còn quá nhiều ẩn số mà con người chưa đủ khả năng để lý giải thì làm sao có khả năng để hàng phục thiên nhiên được. Do đó, càng vận dụng khả năng và trí thông minh của mình để thách đố, khiêu khích thiên nhiên, con người càng không thể tìm lối ra trong an bình được. Đúng như Các-Mác nói: càng chinh phục thiên nhiên thì thiên nhiên càng trả thù, ngày nay, con người đang đi gần đến chỗ bế tắc hơn nữa khi tìm cách giải quyết những vấn nạn môi sinh trên thế giới do chính con người tạo ra như : bầu khí quyển bị ô nhiễm đến mức báo động; nguồn nước sinh hoạt bắt đầu cạn kiệt về lượng cũng như không còn trong lành về phẩm như xưa nữa; và vùng đất sinh sống của con người ngày ngày càng bị thu hẹp do ô nhiễm, sa mạc hóa, sự chai đất v.v.. Tuy nhiên, nếu chúng ta cùng nhìn vào một bước tích cực, chúng ta vẫn còn có lối ra hay một giải pháp nếu chúng ta biết suy nghĩ lại. Do đó, ngày nay , chúng ta nên hiểu cho đúng về vấn đề chinh phục thiên nhiên. Công việc này quả là một nan đề cho bất cứ nhà khoa học nào có lương tâm và có một tầm nhìn đúng đắn về dự phóng tương lai. Trong thiên niên kỷ thứ ba này, nhiệm vụ chính yếu của các nhà làm khoa học trên thế giới là: tập trung trí tuệ để bảo vệ và tái tạo sự tuần hoàn nguyên thủy của thiên nhiên, như hạn chế việc thiết lập thêm và phá huỷ các đập thuỷ điện hiện có để duy trì hệ sinh thái thiên nhiên trong vùng; nghiên cứu những công nghệ sạch để thay thế nguồn các năng lượng đang xử dụng hiện tại, như dùng năng lượng tái tạo hay năng lượng mặt trời, gió, hoặc biến cải năng lượng từ than nhiệt điện bằng phương pháp biến than đá thành khí và từ đó tạo ra năng lượng; truy tìm các giải pháp thiên nhiên để giải quyết vấn nạn ô nhiễm trên thế giới như dùng cây cỏ để hấp thụ hoá chất độc hại do con người thải ra trong đất và nước do phát triển kỹ nghệ. Nếu ý thức được những bổn phận và trách nhiệm trên mỗi người trong chúng ta sẽ biết gìn giữ và bảo vệ môi trường sống chung quanh mình, đó là một phương cách an toàn và nhân bản nhất để có một cuộc hành trình tốt đẹp và an bình nhất trong thiên kỷ thứ ba. Và hơn nữa, có làm được như thế, chúng ta mới hoàn trả lại một phần nào món nợ mà chúng ta đã vay mượn trước của các thế hệ sau do việc đã làm suy thoái môi trường và phí phạm tài nguyên trong quá trình phát triển kỹ nghệ để giải quyết nhu cầu của con người trong suốt thời gian qua Mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên và công cuộc chinh phục thiên nhiên của loài người sẽ luôn là vấn đề để chúng ta quan tâm, suy ngẫm và tìm cách giải quyết hợp lí, hiệu quả. Sản phẩm của nhóm 4 Câu hỏi: Sưu tầm tranh ảnh về Sông Đà Trả lời: Cảnh bờ sông hùng vĩ, hiểm trở. Thác nước hung dữ. Người soạn: Nguyễn Thị Hồng Liên Tổ Ngữ văn- Trường THPT chuyên Lương Văn Tụy- Ninh Bình. BÁO CÁO TÓM TẮT SÁNG KIẾN NĂM HỌC 2013-2014 Tên sáng kiến Tác giả Giải pháp cũ thường làm Giải pháp mới cải tiến Hiệu quả giảng dạy Khả năng áp dụng Tích hợp liên môn Ngữ văn, Lịch sử, Địa lí, Văn hóa học, Sinh thái học trong bài đọc- hiểu văn bản Người lái đò Sông Đà ( trích) của Nguyễn Tuân. Nguyễn Thị Hồng Liên, Tổ Ngữ Văn , Trường THPT chuyên Lương Văn Tụy, Ninh Bình. Trước đây, khi hướng dẫn HS tìm hiểu trích đoạn tùy bút này, vì chưa chú ý tới tính đặc trưng về thể loại; đồng thời chưa chú ý vận dụng kết hợp kiến thức của các môn học, ngành học khác nên hạn chế của bài học là chúng tôi chưa giúp HS: Biết vận dụng sáng tạo những kiến thức, kĩ năng đã học vào thực tiễn cuộc sống, trong nhiều tình huống mà các em sẽ gặp sau này;có những nhận thức sâu sắc về hiện thực cuộc sống, biết yêu, bảo vệ và chung sống hòa bình với thiên nhiên; có thái độ thân thiện với tự nhiên, không khai thác cạn kiệt dẫn đến tàn phá tự nhiên. Bài dạy có sự tích hợp kiến thức liên môn. GV tổ chức giờ dạy theo sự kết hợp giữa các phương pháp: đọc tái hiện, nêu vấn đề, gợi tìm, đàm thoại, trao đổi thảo luận nhón, kết hợp với diễn giảng thuyết trình. Qua bài học, giúp HS nắm được: Vài nét về tác giả Nguyễn Tuân và tùy bút Người lái đò Sông Đà. Vận dụng kiến thức đa ngành, bằng câu chữ điêu luyện, nghệ thuật nhân hóa, so sánh, mạch liên tưởng đa chiều tài hoa, uyên bác, Nguyễn Tuân đã làm hiện hình Sông Đà vừa hung bạo vừa trữ tình; có lúc tưởng như mang diện mạo, tâm địa của một thứ kẻ thù số một với con người nhưng thực ra lại luôn hòa hợp trong mối quan hệ với con người. Từ đó HS thấy được nét đặc sắc chủ yếu trong nghệ thuật tùy bút của Nguyễn Tuân; biết vận dụng sáng tạo những kiến thức, kĩ năng đã học vào thực tiễn cuộc sống, trong nhiều tình huống mà các em sẽ gặp sau này; có những nhận thức sâu sắc về hiện thực cuộc sống, biết yêu, bảo vệ và chung sống hòa bình với thiên nhiên; có thái độ thân thiện với tự nhiên, không khai thác cạn kiệt dẫn đến tàn phá tự nhiên; phát huy được năng lực vận dụng kiến thức liên môn để khám phá chiều sâu tư tưởng và vẻ đẹp của một tác phẩm văn chương, kết hợp tri thức của nhiều lĩnh vực nhằm giải quyết những vấn đề mang tính phức hợp. Qua bài học, HS sẽ hiểu về đặc trưng của thể, rèn luyện kĩ năng tìm hiểu một văn bản tùy bút; biết vận dụng sáng tạo những kiến thức, kĩ năng đã học vào thực tiễn cuộc sống, trong nhiều tình huống mà các em sẽ gặp sau này;có những nhận thức sâu sắc về hiện thực cuộc sống, biết yêu, bảo vệ và chung sống hòa bình với thiên nhiên có thái độ thân thiện với tự nhiên, không khai thác cạn kiệt dẫn đến tàn phá tự nhiên; phát huy được năng lực vận dụng kiến thức liên môn, tích hợp kiến thức để khám phá chiều sâu tư tưởng và vẻ đẹp của một tác phẩm văn chương, kết hợp tri thức của nhiều lĩnh vực khác nhau nhằm giải quyết những vấn đề mang tính phức hợp. Trong tiết Tự chọn, GV tổ chức kiểm tra đánh giá kết quả học tập của HS.HS đã thực hiện tốtcác bài tập nhằm phát triển năng lực, định hướng năng lực xã hội, năng lực cá thể, các em đã được trang bị kĩ hơn nhiều kiến thức về văn học; có khả năng tiếp nhận những vấn đề sâu sắc, có ý nghĩa về cuộc sống, con người và nghệ thuật; có năng lực, kĩ năng đọc - hiểu các văn bản văn chương. Trong các bài kiểm tra, tôi ra đề về trích đoạn này, đa số các em đều đạt yêu cầu, có nhiều bài đạt điểm khá, giỏi, có những bài viết rất sáng tạo, giàu cảm xúc. Đối tượng áp dụng là HS THPT, lớp 12, lớp học có khoảng từ 30 đến 35 em Các em có niềm say mê, yêu thích học môn học, có hứng thú khám phá vẻ đẹp của tác phẩm văn chương . HS đã được trang bị vốn kiến thức phong phú, có hệ thống ở nhiều môn khoa học khác nhau, đủ khả năng để tiếp nhận dự án dạy học. Ngoài các tiết học theo Phân phối chương trình, HS có thêm tiết học Tự chọn, đó là một thuận lợi để GV và HS có thể thực hiện các bài tập nhằm phát triển năng lực, định hướng năng lực xã hội, năng lực cá thể.
File đính kèm:
skkn_tich_hop_lien_mon_ngu_van_lich_su_dia_li_van_hoa_hoc_si.doc