SKKN Tìm hiểu nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật của một số tác giả trong chương trình Ngữ Văn THPT
Đối tượng chung của văn học là cuộc đời nhưng trong đó con người luôn giữ vị trí trung tâm. Những sự kiện kinh tế, chính trị, xã hội, những bức tranh thiên nhiên, những lời bình luận...đều góp phần tạo nên sự phong phú, đa dạng cho tác phẩm nhưng cái quyết định chất lượng tác phẩm văn học chính là việc xây dựng nhân vật. Đọc một tác phẩm, cái đọng lại sâu sắc nhất trong tâm hồn người đọc thường là số phận, tình cảm, cảm xúc, suy tư của những con người được nhà văn thể hiện. Vì vậy, Tô Hoài đã có lí khi cho rằng "Nhân vật là nơi duy nhất tập trung hết thảy, giải quyết hết thảy trong một sáng tác"
Văn học phản ánh cuộc sống bằng hình tượng - đó là mệnh đề bất biến trong cõi riêng của nghệ thuật ngôn từ. Người nghệ sĩ chiếm lĩnh, khám phá, phản ánh thế giới khách quan bằng hệ thống hình tượng nghệ thuật, thông qua lăng kính chủ quan của mình.
Nhân vật văn học không giống với các nhân vật thuộc các loại hình nghệ thuật khác. Nhân vật văn học được thể hiện bằng chất liệu riêng là ngôn từ. Vì vậy, nhân vật văn học đòi hỏi người đọc phải vận dụng trí tưởng tượng, liên tưởng để dựng lại một con người hoàn chỉnh trong tất cả các mối quan hệ của nó.
Nghệ thuật xây dựng nhân vật là một trong những yếu tố then chốt tạo nên thành công của tác phẩm văn chương. Trong việc khắc họa nhân vật, nghệ thuật miêu tả tâm lí là thử thách hàng đầu đối với người cầm bút. Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật là thước đo tài năng của người nghệ sĩ, là minh chứng cho sự dụng công, dụng tâm của nhà văn. Qua tâm lí nhân vật, có thể nhận ra các phương thức khắc họa nội tâm được vận dụng, kĩ thuật to chức điểm nhìn trần thuật, khả năng làm chủ ngôn ngữ của người cầm bút... Đây cũng là thước đo tấm lòng của tác giả đối với cuộc sống và con người. Tình đời, tình người của chủ thể sáng tác càng nặng bao nhiêu thì sự am hiểu tâm lí con người của nhà văn càng sâu sắc bấy nhiêu, sự phân tích, miêu tả tâm lí nhân vật càng thêm chân thực, thuyết phục.
Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật của một số tác giả trong chương trình Ngữ văn THPT có ý nghĩa quan trọng về mặt lí luận. Chuyên đề này góp phần giúp người đọc nắm rõ hơn các vấn đề như: khái niệm, các phương thức, phương tiện miêu tả tâm lí nhân vật, tâm và tài của người nghệ sĩ, đặc trưng phong cách của tác giả qua nghệ thuật diễn tả nội tâm con người...Từ đó giúp học sinh giải 1 số dạng đề liên quan đến kiến thức lý luận văn học được trình bày trong phần một của chuyên đề.
Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Tìm hiểu nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật của một số tác giả trong chương trình Ngữ Văn THPT
hơn vào cút rượu của bà cụ Thi điên dù trong em không phải không có cảm giác sờ sợ rất tự nhiên ở một đứa trẻ khi phải đối diện với một người không hoàn toàn bình thường. Chính những tình cảm ngỡ như rất giản dị ấy lại làm cho người ta cảm động như được "thanh lọc tâm hồn" để trở về với những gì tự nhiên thuần khiết nhất. b. 3. Chất thơ trong tâm trạng của tác giả: Dường như, Thạch Lam đã viết truyện ngắn "Hai đứa trẻ" bằng chính những trải nghiệm tuổi thơ ở phố huyện Cẩm Giàng. Đọc truyện, không thể không nhận thấy cái tình âu yếm mà Thạch Lam dành cho nhân vật. Cái tình âu yếm ấy một mặt xuất phát từ cái nhìn nhân hậu, yêu thương mà người lớn dành cho lứa tuổi này, một mặt là do nhà văn đã hoá thân vào nhân vật, là sự ám ảnh của tuổi thơ gắn liền với phố huyện Cẩm Giàng. Sự cộng hưởng của những cảm xúc này để tạo cho những trang viết Thạch Lam một sự hoà quyện giữa chất thực và chất thơ để tạo thành một sức hút da diết, bền lâu của tác phẩm. b. 4. Chất thơ trong hình thức nghệ thuật: Trong truyện, Thạch Lam đã xây dựng được một thế giới hình ảnh vừa chân thực, sinh động lại vừa vô cùng gợi cảm bởi chính vẻ đẹp của nó. + Quan niệm của Thạch Lam: "Cái đẹp man mác khắp vũ trụ, len lỏi khắp hang cùng ngõ hẻm, tiềm tàng ở mọi vật bình thường". + Không gian được lựa chọn trong tác phẩm: Một phố huyện nghèo nơi tiếp giáp giữa thành thị và thôn quê song dưới ngi bút Thạch Lam dường như tính chất làng đã nhiều hơn tính chất phố. + Trong không gian êm ả, tĩnh lặng của phố huyện, mỗi hình ảnh được ngòi bút Thạch Lam gợi ra đều chan chứa chất thơ: Phương Tây "đỏ rực như lửa cháy", đám mây "ánh hồng như hòn than sắp tàn", tiếng trống thu không "vang xa để gọi buổi chiều", đêm mùa hạ "êm như nhung và thoảng qua gió mát", vòm trời "hàng ngàn ngôi sao ganh nhau lấp lánh", những con đom đóm "bay là là trên mặt đất hay len vào những cành cây", bóng bác phở Siêu "mênh mông ngả xuống đất một vùng và kéo dài đến tận hàng rào hai bên ngõ".. .Tất thảy đều là những hình ảnh, màu sắc, âm thanh vô cùng quen thuộc, bình dị mà ngỡ như rất mới mẻ, rất gợi cảm trong những câu văn Thạch Lam bởi nó không chỉ hiện diện như một khái niệm mà như một trạng thái của sự sống đang xao động để chuyển dần một cách tinh tế cái xao động ấy vào tâm hồn con người. Dưới ngòi bút Thạch Lam, thậm chí đến cả rác rưởi của một phiên chợ quê cũng gợi nhớ bao điều thân thuộc "Chợ họp giữa phố vãn từ lâu. Người về hết và tiếng ồn ào cũng mất. Trên đất chỉ còn rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá mía. Một mùi âm ẩm bốc lên, hơi nóng của ban ngày lẫn mùi cát bụi quen thuộc quá, khiến chị em Liên tưởng là mùi riêng của đất, của quê hương này". Sức gợi cảm của thứ mùi vị này ở chỗ nó đánh thức cảm xúc, cảm giác ấu thơ của rất nhiều người Việt. Truyện có những chi tiết được lựa chọn đích đáng để thể hiện tinh và sâu thế giới của những cảm xúc, cảm giác và tình cảm vừa mơ hồ, vừa da diết trong tâm hồn nhân vật: Liên ngồi lặng lẽ bên mấy quả thuốc sơn đen lúc chiều muộn với đôi mắt ngập đầy dần bóng tối; Liên cùng em nhìn ngắm những vì sao để mà thấy chúng như thuộc về vũ trụ thăm thẳm bao la, đầy bí mật và xa lạ; Liên và An chờ đợi chuyến tàu đêm... Trong số đó, có thể nói, chi tiết đợi tàu của hai đứa trẻ chính là đỉnh điểm của chất thơ trong tâm hồn người. Với hai chị em Liên, đoàn tàu vừa là một thực tế, vừa là một ảo ảnh trong cái nhìn non trẻ và đầy khát khao. Đoàn tàu đi rồi, ánh sáng vụt loé lên cũng đã tắt, hai chị em cũng đã chìm vào giấc ngủ song dư âm của khát vọng thì vẫn còn vang vọng mãi bởi đó là yếu tố cơ bản để "gióng lên cái gì đó còn ở tương lai" (Nguyễn Tuân). Ánh sáng của đoàn tàu đã làm cháy lên một thứ ánh sáng khác - ánh sáng của khát vọng da diết trong tâm hồn những đứa trẻ. Trân trọng và nâng niu khi khám phá ra thứ ánh sáng này, tác phẩm của Thạch Lam đã đạt tới một giá trị nhân văn đáng quý. - Mạch truyện của "Hai đứa trẻ" rất đậm chất trữ tình: + Quan niệm của Thạch Lam: "Nhà văn cốt nhất phải đi sâu vào tâm hồn mình, tìm thấy những tính tình và cảm giác thành thực: tức là tìm thấy tâm hồn mọi người qua tâm hồn của chính mình". Từ đó có thể thấy, cái hiện thực mà nhà văn quan tâm và đặt lên hàng đầu là hiện thực tâm trạng, là những xúc cảm, rung động của tâm hồn con người. + Truyện "Hai đứa trẻ" không có cốt truyện, mạch truyện không vận động theo mạch của những tình tiết, sự kiện mà vận động theo mạch cảm xúc, tâm trạng nhân vật. Để làm được điều này, nhà văn đã đặt điểm nhìn trần thuật vào nhân vật Liên - một cô gái chưa hoàn toàn bước ra khỏi thời ấu thơ, một cô gái có tâm hồn thuần khiết và nhạy cảm. Từ điểm nhìn ấy, bức tranh đời sống được tái hiện với sự đan xen, song hành và xâm nhập của cảm giác thực tại và hồi ức quá khứ mà dường như, cái noi trội lên, chi phối sự vận động của mạch truyện lại là hành trình tìm lại những kí ức quá khứ từ chính cái hình ảnh đang hiện diện trong thực tại - hình ảnh đoàn tàu. Triển khai mạch truyện theo hướng này, ngòi bút Thạch Lam có xu hướng hướng nội, đi vào thế giới bên trong với những cảm xúc, cảm giác nhiều khi rất mong manh, mơ hồ, thoáng qua, những biến thái tinh vi của tâm hồn trước ngoại cảnh: nỗi buồn man mác trước cái giờ khắc của ngày tàn, những hoài niệm da diết về một Hà Nội trong kí ức tuổi thơ, những cảm giác xa xôi không biết... - Để thể hiện thành công tất cả những điều trên, Thạch Lam đã sử dụng một bút pháp trữ tình đặc sắc trong lời kể, giọng kể, một bút pháp hoà hợp sự trong sáng, chính xác và dịu dàng, hoà hợp sự kín đáo và giản dị như một lời thủ thỉ vừa phải, êm đềm nhỏ nhẹ nhưng có thể phân biệt được từng âm vị. + Thạch Lam ít dùng những chữ to tát, những nhịp điệu gấp gáp vội vàng, lời văn của ông nhuần nhuyễn, tinh tế để phô diễn những trạng thái, những cảm xúc trong tâm hồn. Câu văn của Thạch Lam nhiều thanh bằng gợi một nhịp điệu chậm buồn nhưng có sức lan toả. Chẳng hạn khi miêu tả vẻ trầm buồn nhưng cũng rất đỗi nên thơ của phố huyện, Thạch Lam đã viết: "Chiều, chiều rồi, một chiều êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào." Hay miêu tả cảnh đêm tối sau khi chuyến tàu đi qua: "Đêm tối vẫn bao bọc xung quanh, đêm của đất quê, và ngoài kia đồng ruộng mênh mang và yên lặng". + Thạch Lam đã sáng tạo ra một thứ ngôn ngữ nghệ thuật riêng để biểu đạt cái xao động của sự sống khẽ vang lên trong không gian, thời gian tĩnh mịch để diễn tả cái thanh thoát, dịu hiền của tâm hồn Liên: êm ả, yên lặng, thong thả, gượng nhẹ, nhỏ xíu, yên tĩnh, mơ hồ, miên man, tĩnh mịch ... Những từ ngữ này liên kết với nhau như một dải lụa nhẹ bay để tạo một dư âm sâu lắng trong tâm hồn người đọc. + Văn phong Thạch Lam rất bình dị: Câu văn ngắn, nhịp văn chậm rãi, thong thả. Dù diễn tả cái náo nức bên trong, cái sôi động của ước mơ, Thạch Lam vẫn rất nhẹ nhàng, vẫn tự nén ngòi bút. Chuyến tàu rực sáng vụt qua, Liên xúc động mạnh khi kỉ niệm xưa dồn dập hiện về "Hà Nội xa xăm, Hà nội sáng rực, vui vẻ và huyên náo". Đây là một trong số ít những câu văn kết hợp lối trùng điệp và những thanh trắc tạo điểm nhấn và ngay câu sau Thạch Lam viết ngắn hơn, nhẹ hơn, như ghìm giữ lại niềm xúc động: "Con tàu như đem một chút thế giới khác đi qua". Thạch Lam thường sử dụng kiểu cú pháp đẳng lập, đều đều, nhịp độ khoan thai điềm tĩnh mà vẫn gây những chấn động nhẹ nhàng, thấm thía chính là ở độ nén của cảm xúc mà nhà văn tạo ra trong những câu văn. a. Kết luận: - Truyện ngắn "Hai đứa trẻ", từ hình thức nghệ thuật tới nội dung được biểu hiện đều chan chứa chất thơ - cái chất thơ được chưng cất từ đời sống bình dị, thường nhật bằng chính rung động của tâm hồn nhà văn, chất thơ toả ra từ tình yêu cái đẹp, từ cái nhìn tinh tế trước thiên nhiên, đời sống và niềm tin ở thiện căn của con người...Từ đó khẳng định Thạch Lam đã mở cửa văn xuôi cho thơ tràn vào”. - Với những gì được khai thác và biểu hiện trong tác phẩm, đặc biệt qua tâm trạng Liên có thể nói, truyện "Hai đứa trẻ" tựa như một bài thơ trữ tình, dù không thật giàu có sâu sắc về ý nghĩa xã hội thì vẫn "đem đến cho người đọc một cái gì nhẹ nhõm, thơm lành và mát dịu" (Nguyễn Tuân). Đó vừa là giá trị riêng của tác phẩm, vừa là cốt cách văn chương của Thạch Lam để tạo ra một sức hấp dẫn bền lâu trong lòng đọc giả. b. Những lưu ý khi làm các dạng đề liên quan đến nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật. - Đọc kĩ tác phẩm, nắm chắc nội dung và các chi tiết liên quan đến nhân vật. - Nắm rõ bối cảnh ra đời của các tác phẩm. - Muốn làm rõ được đặc điểm nhân vật cần đặt nhân vật trong các mối quan hệ sống được mô tả trong tác phẩm mà xem xét. - Nắm chắc kiểu bài phân tích nhân vật từ đó linh hoạt trong quá trình làm bài - Miêu tả phân tích tâm lý nhân vật cần xác định rõ kiểu - loại nhân vật: nhân vật tư tưởng, nhân vật tính cách, nhân vật tâm trạng, nhân vật số phận từ đó có cách khai thác phù hợp. KẾT LUẬN Việc khảo sát nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật của các cây bút trong chương trình Ngữ văn THPT là cần thiết, có ý nghĩa cả về lí luận và thực tiễn, có tính ứng dụng cao. Báo cáo chuyên đề này đã hệ thống hóa những vấn đề lí thuyết trong nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật; đồng thời người viết cố gắng “bắt mạch” các điểm đặc sắc trong nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật của một số tác giả trong chương trình Ngữ văn THPT. Tôi cũng đưa ra một số dạng đề có liên quan đến vấn đề đang giải quyết, gợi ý đáp án để người đọc tham khảo. Báo cáo chuyên đề áp dụng với việc dạy bồi dưỡng học sinh giỏi cũng như dạy đối tượng học sinh đại trà. Mong rằng những cố gắng của người viết sẽ giúp ích phần nào các đồng nghiệp trong quá trình giảng dạy. Biển học vô bờ, một chiếc thuyền nan kiến thức không thể giúp tôi đi tới những ngõ ngách của vấn đề đang bàn luận. Chuyên này chắc chắn không tránh được những hạn chế, thiếu sót. Kính mong các đồng nghiệp xa gần sẻ chia, góp ý cho tôi. Xin trân trọng cảm ơn! ĐỀ XUẤT Các đồng nghiệp nên tích cực ra nhiều đề bài có liên quan đến nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật, đồng thời khuyến khích các em mạnh dạn tự ra những đề văn, đặt ra những tình huống đề bài khác nhau, chủ động trao đoi với giáo viên về phương hướng giải quyết. Khi ra đề, theo tôi, nên tránh kiểu câu hỏi tái hiện kiến thức đơn thuần, đề phải mở ra khoảng trời cho học sinh sáng tạo, kích thích tính tích cực, chủ động và phát triển năng lực người học theo định hướng đổi mới giáo dục hiện nay. 8. Những thông tin cần được bảo mật (nếu có): không 9. Các õiều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến: Khả năng áp dụng: đề tài được áp dụng trong quá trình giảng dạy các tác phẩmdddã nêu trong báo cáo. Điều kiện áp dụng: Để đề tài được áp dụng pho biến trong dạy học ngữ vãn ở trýờng THPT cần sự nỗ lực, cố gắng hết mình của giáo viên giảng dạy và học sinh. Trong quá trình thực hiện đòi hỏi giáo viên cần phải nhiệt huyết với nghề, đầu tư nghiên cứu tìm tòi, chuẩn bị kĩ những phạm vi kiến thức và dạn đề thi và hướng dẫn học sinh cách luyện giải các dạng õề. 10. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tác giả và theo ý kiến của tổ chức, cá nhân đã tham gia áp dụng sáng kiến lần đầu, kể cả áp dụng thử (nếu có) theo các nội dung sau: 10.1 Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tác giả: Đề tài nghiên cứu này tôi hi vọng sẽ đóng góp một phần nhỏ bé công sức vào công cuộc đổi mới dạy học tác phẩm văn chương trong nhà trường phổ thông hiện nay, góp phần làm cho những giờ dạy văn trở nên thú vị, hấp dẫn, chuyên sâu và đrtạ kết quả như mong muốn. Mặt khác báo cáo là nguồn tư liệu giúp giáo viên và học sinh tham khảo trong kì thi THPT Quốc gia. 10.2 Đánh giá lợi ích thu õýợc hoặc dự kiến có thể thu õýợc do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tổ chức, cá nhân: Đề tài nghiên cứu có tính khả thi và ứng dụng vào thực tiễn, mang lại hiệu quả cao trong giờ học văn ở trường phổ thông. Giúp học sinh có kiến thức chuyên sâu, có kĩ nãng làm bài về dạng đề với các tác phẩm đã được nêu trong báo cáo từ đó có niềm say mê và hứng thú với môn học. Với sáng kiến nhỏ này, người viết mong nhận được ý kiến đóng góp của các đồng nghiệp nhằm bổ sung cho đề tài đựợc sâu sắc và thiết thực hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn! 11. Danh sách những tổ chức/cá nhân đã tham gia áp dụng thử hoặc áp dụng sáng kiến lần đầu (nếu có) V ĩnh Tường, ngày.thángnăm 2019 Vĩnh Tường, ngày 12 tháng 2 năm 2019 Thủ trưởng đơn vị Tác giả sáng kiến (Ký tên, đóng dấu) (Ký, ghi rõ họ tên) Số TT Tên tổ chức/cá nhân Địa chỉ Phạm vi/Lĩnh vực áp dụng sáng kiến 1 Lớp 11A2,11A3, 12A2,12A3, 12A4 Trường THPT NguyễnThị Giang Nghệ thuật miêu tả tâm lý các tác phẩm Hai đứa trẻ, Chí phèo, Vợ chồng A Phủ, Vợ Nhặt, Những đứa con trong gia đình. Vĩnh Tường, ngày.....tháng......năm 2019 Vĩnh Tường, ngày 12 tháng 2 năm 2019 Thủ trưởng đơn vị Tác giả sáng kiến (Ký tên, đóng dấu) (Ký, ghi rõ họ tên) Phan Thị Hạnh TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Phan Trọng Luận, Thiết kế bài học Ngữ văn 11, tập 2, NXB Giáo dục - 2008. 2. Nguyễn Văn Đường, Thiết kế bài giảng Ngữ văn 11 Tập 2, NXB Hà Nội - 2008. 3. Nguyễn Khắc Đàm, Nguyễn Trọng Hoàn, Giới thiệu giáo án Ngữ vãn 11 - Tập 2, NXB Hà Nội - 2007 4. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi, Từ điển thuật ngữ văn học, NXB ĐHQG, H.2000 5. Phan Trọng Luận (tong chủ biên), Sách giáo viên Ngữ văn 11 Tập 2, NXB GD, H.2007 6. Phan Trọng Luận (tổng chủ biên), Sách giáo viên nâng cao Ngữ văn Tập 2, NXB GD, H.2007 7. Phan Trọng Luận (tổng chủ biên), Sách giáo khoa Ngữ văn 11 Tập 2, NXB GD, H.2013 8. Nguyễn Đăng Mạnh, Những bài giảng về tác gia văn học tập 2, NXB ĐHQG, H.1999. 9. Nguyễn Đăng Mạnh (Chủ biên), Phân tích bình giảng tác phẩm văn học lớp 11 nâng cao, NXBGD, H.2007. 10. Trần Đình Sử (Tổng chủ biên), Ngữ văn 11 nâng cao, tập 2, NXBGD, H.2007. 11. Phan Trọng Luận, Thiết kế bài học Ngữ văn 12, tập 2, NXB Giáo dục - 2008. 12. Lí luận văn học (3 tập), NXB Đại học sư phạm. 13. Nguyễn Đăng Mạnh (Chủ biên), Phân tích bình giảng tác phẩm văn học lớp 12 nâng cao, NXBGD, H.2007. SỞ GD & ĐT VĨNH PHÚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TRƯỜNG THPT NGUYỄN THỊ GIANG Độc lập - Tự do - Hạnh phúc PHIẾU ĐĂNG KÝ VIẾT SÁNG KIẾN KNH NGHIỆM CẤP: NGÀNH □ ; TỈNH: □. I. Thông tin về tác giả đăng ký SKKN 1. Họ và tên: Phan Thị Hạnh 2. Ngày sinh: 15 / 03 / 1980 3. Đơn vị công tác: Trường THPT Nguyễn Thị Giang 4. Chuyên môn: Giáo viên Ngữ Văn 5. Nhiệm vụ được phân công trong năm học: Giảng dạy Môn Văn 11, 12 II. Thông tin về sáng kiến kinh nghiệm 1. Tên sáng kiến kinh nghiệm: Tìm hiểu nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật của một số tác giả tiêu biểu trong chương trình Ngữ Văn THPT 2. Cấp học (THPT, GDTX): THPT 3. Mã lĩnh vực :51 4. Thời gian nghiên cứu: từ tháng 10/2017 đến tháng 1/2018 5. Địa điểm nghiên cứu: Trường THPT Nguyễn Thị Giang - xã Đại Đồng - huyện Vĩnh Tường - Tỉnh Vĩnh Phúc. 6. Đối tượng nghiên cứu: Học sinh khối 11,12 Ngày tháng năm 20 Ngày tháng năm 20 Ngày... tháng... năm 201 THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ (). TRƯỞNG/NHÓM NGƯỜI ĐĂNG KÝ TRƯỞNG CHUYÊN MÔN (Ký, ghi rõ họ tên, đóng dấu) (Ký, ghi rõ họ tên) (Ký, ghi rõ họ tên) Phan Thị Hạnh
File đính kèm:
skkn_tim_hieu_nghe_thuat_mieu_ta_tam_ly_nhan_vat_cua_mot_so.docx
SKKN Tìm hiểu nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật của một số tác giả trong chương trình Ngữ Văn THPT.pdf

