SKKN Vận dụng phương pháp tranh luận trong dạy học đọc hiểu văn bản hướng tới phát triển tư duy phản biện cho học sinh tại Trường THCS Phan Đăng Lưu
Xu hướng của GD thế giới hiện nay là chú trọng phát triển TDPB cho người học. Với GD Việt Nam, phát triển TDPB là một hướng đi hiệu quả cho mục tiêu dạy học phát triển NL của HS. Nghị quyết số 29/NQ-TW của Ban Chấp hành Trung ương về đổi mới căn bản toàn diện GD - ĐT đã xác định mục tiêu trọng tâm của GD, dạy học là chuyển từ tiếp cận tri thức sang tiếp cận NL người học để có thể đào tạo những công dân đáp ứng được xu thế toàn cầu hóa. Yêu cầu của thực tế hiện nay là cần dạy cho người học PP chiếm lĩnh tri thức, chứ không phải cung cấp tri thức. Vì thế, phát triển TDPB được xem là một trong những bước đi cần thiết nhằm đưa hoạt động GD, dạy học đi vào quỹ đạo phát triển NL hiện nay.
Thực tế trong học tập và trong cuộc sống hiện nay luôn chú trọng đến hoạt động tranh luận. Trên các diễn đàn, chương trình truyền hình cũng xuất hiện những chương trình hình thành và rèn luyện năng lực TDPB cho HS như Trường Teen hay Thanh niên nói. HS cần phải tự mình kiến tạo tri thức; xây dựng được chính kiến của bản thân; có khả năng đánh giá và phản biện đưa ra các lí lẽ sắc sảo, cách lập luận chặt chẽ để phản bác lại quan điểm của người khác, đồng thời bảo vệ quan điểm của mình.
Môn Ngữ văn trong hệ thống chương trình GDPT đóng vai trò quan trọng trong việc rèn luyện và phát triển các NL thiết yếu của người học, như: NL ngôn ngữ, NL thẩm mỹ, tự học và sáng tạo…. Chính vì vậy việc phát triển NL cho người học thông qua môn Ngữ văn cũng là một yêu cầu tất yếu. Ở các nền GD tiên tiến, môn Ngữ văn được xem là một trong những môn học có thế mạnh để rèn luyện TDPB cho người học. Chính vì vậy, phát triển TDPB cho HS qua dạy học đọc hiểu văn bản trong CT Ngữ văn THPT là việc làm cần thiết, phù hợp với mục tiêu bồi dưỡng phẩm chất, NL người học qua môn học.
Phương pháp tranh luận phù hợp với đặc trưng của bộ môn Ngữ văn nói chung và đọc hiểu văn bản nói riêng. Áp dụng phương pháp tranh luận sẽ góp phần giúp HS hiểu rõ bản chất vấn đề; phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh; có quan điểm, chính kiến rõ ràng trước mọi vấn đề; rèn luyện cho các em nhìn nhận các nội dung dưới góc độ nhiều chiều; hình thành NL TDPB. Từ thực tế trên, chúng tôi quyết định chọn thực hiện đề tài “Vận dụng phương pháp tranh luận trong dạy học đọc hiểu văn bản hướng tới phát triển tư duy phản biện cho học sinh THPT”. Chọn đề tài này, người viết muốn góp phần phát triển TDPB cho HS một cách hiệu quả, góp phần đổi mới PPDH theo định hướng phát triển NL của HS, hướng đến mục tiêu đào tạo những công dân năng động, sáng tạo, tự tin, đáp ứng tốt yêu cầu của đất nước trong thời kỳ hội nhập.
Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Vận dụng phương pháp tranh luận trong dạy học đọc hiểu văn bản hướng tới phát triển tư duy phản biện cho học sinh tại Trường THCS Phan Đăng Lưu

1.1. Giáo án Power Point Thơ Hai - cư của Ba sô 1.2. Thuyết trình về nhà thơ Ba Sô qua trình chiếu PowerPoint: 1.3. Giáo án Power Point Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu 1.4. Video thuyết trình về tác giả Nguyễn Minh Châu 1.5. Video tóm tắt văn bản Chiếc thuyền ngoài xa 1.6. Video thuyết trình, thảo luận, tranh biện về chuyện ở trên bãi biển 1.7. Video Phiên tòa xử án: Chuyện người đàn bà ở tòa án huyện 1.8. Video trò chơi ô chữ Chiếc thuyền ngoài xa Phụ lục V: KỊCH BẢN PHIÊN TÒA: CÂU CHUYỆN NGƯỜI ĐÀN BÀ Ở TÒA ÁN HUYỆN Đây là lần thứ hai người đàn bà được Đẩu mời đến về công việc gia đình tại phòng chánh án. Đẩu đề nghị người đàn bà li hôn người chồng vũ phu. Người đàn bà (sợ sệt, lúng túng): Tìm đến một góc tường để ngồi. Chánh án Đẩu (thân mật): Chị ngồi lên đây, sao lại thế, hãy ngồi lên chiếc ghế này Người đàn bà (rón rén): Ngồi ghé vào mép chiếc ghế và cố thu người lại. Chánh án Đẩu: Thế nào chị đã nghĩ kĩ chưa? Người đàn bà (ngước lên nhìn Đẩu, rồi lại cúi mặt xuống): Thưa đã Chánh án Đẩu (gật đầu, đứng dậy, giọng giận dữ): Ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng. Cả nước không có một người chồng nào như hắn. Chị không sống nổi với cái lão đàn ông vũ phu ấy đâu! Người đàn bà: Con lạy quý tòaQúy tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được nhưng đừng bắt con bỏ nó Nghệ sĩ Phùng (vén lá màn bước ra): Sao! Chị vẫn chưa quyết định bỏ được hắn à? Chánh án Đẩu: Cậu hãy bình tĩnh, ngồi xuống. Tùy chị, nguyên tắc của chúng tôi là kêu gọi hòa thuận. Người đàn bà (giọng khẩn thiết): - Chị cảm ơn các chú! Đây là chị nói thành thực, chị cảm ơn các chú. Lòng các chú tốt, nhưng các chú đâu có phải là người làm ăncho nên các chú đâu có hiểu được cái việc của các người làm ăn lam lũ, khó nhọc. - Từ nhỏ, tôi là một đứa con gái xấu lại rỗ mặt sau một trận đậu mùa. Hồi bấy giờ thì nhà tôi cũng ở trong cái phố này. Hồi đó thì nhà tôi cũng còn khá giả nhưng cũng vì xấu, không ai lấy, tôi có mang với một anh con trai con nhà hàng chài. Lão chồng tôi khi ấy là một anh con trai cục tính nhưng mà hiền lành lắm, không bao giờ đánh đập tôi cả. - Giá mà tôi đẻ ít đi hoặc là sắm được một chiếc thuyền rộng hơn. Từ ngày cách mạng về thì cũng đã đỡ khổ chứ lúc trước kia vào các vụ bắc thì trời làm biển động suốt cả vợ chồng con cái chúng tôi không có gì để ăn, phải ăn xương rồng luộc chấm muối cả tháng trời. Nghệ sĩ Phùng: Hồi trẻ lão có đi lính ngụy không? Người đàn bà (đỏ mặt): Không chú à, cũng nghèo khổ, túng quẫn vì trốn lính, mà cái lỗi chính cũng là tại đám đàn bà chúng tôi đẻ nhiều quá, mà thuyền thì lại chật. Chánh án Đẩu: Nếu vậy thì sao chị không lên bờ mà ở? Người đàn bà: Làm nhà ở trên bờ thì làm sao mà làm được cái nghề thuyền lưới vó, hả chú! Cách mạng về cũng đã cấp đất cho chúng tôi ở nhưng đâu có ai ở trên bờ được! Đâu có bỏ nghề được đâu! Nghệ sĩ Phùng: Ở trên thuyền lão có hay đánh chị không? Người đàn bà: Bất kể lúc nào mà lão thấy khổ quá là lão xách tôi ra đánh! Cũng như đàn ông thuyền khác uống rượumà phải chi lão cũng uống rượu thì tôi cũng còn đỡ khổSau này, khi mà con cái lớn lên, tôi mới xin được với hắnđưa tôi lên bờ mà đánh Chánh án Đẩu (thốt lên): Không thể hiểu được, không thể nào hiểu được! Người đàn bà: Là bởi vì các chú không phải là đàn bà thì làm sao các chú có thể hiểu được nỗi vất vả của một người đàn bà trên chiếc thuyền không có đàn ông, hả chú! Chánh án Đẩu (trút một tiếng thở dài, chua chát): Phải! Bây giờ tôi đã hiểu. Trên thuyền phải có một người đàn ôngdù hắn man rợ, tàn bạo? Người đàn bà: - Phải! Mong các chú cách mạng thông cảm, đám đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần phải có người đàn ông để chèo chống khi phong ba - Đàn bà chúng tôi sinh ra là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn cho nên phải gánh lấy cái khổ. Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở trên đất được! Mong các chú bỏ qua sự lạc hậu của tôi mà đừng bắt tôi bỏ hắn. Vả lại trên thuyền cũng có lúc vợ chồng con cái chúng tôi sống hòa thuận, vui vẻ các chú à! Nghệ sĩ Phùng: Cả đời chị có một lúc nào thật vui không? Người đàn bà: Có chứ, chú! Vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no Phùng ra về với tấm ảnh cho bộ lịch năm mới. Tấm ảnh chất chứa đầy cảm xúc. Quái lạ, tuy là ảnh đen trắng nhưng mỗi lần ngắm kĩ, anh vẫn thấy hiện lên cái màu hồng hồng của ánh sương maivới một người đàn bà thô kệch bước ra từ tấm ảnh. Người đàn bà bước đi chậm rãi, bàn chân giẫm trên mặt đất chắc chắn, hòa lẫn trong đám đông Phụ lục VI: HOẠT CẢNH PHỎNG VẤN NHÀ VĂN NGUYỄN MINH CHÂU Phóng viên: Xin chào nhà văn Nguyễn Minh Châu! Rất vui khi anh đã nhận lời tham gia buổi phỏng vấn Phóng viên: Xin anh cho một vài dòng tiểu sử về mình. Nhà văn: Tôi sinh năm 1930, quê ở làng Văn Thai, tên nôm là làng Thơi, xã Quỳnh Hải, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Năm 1945, tôi tốt nghiệp trường Kỹ nghệ Huế với bằng Thành chung. Tháng 1 năm 1950, tôi học chuyên khoa trường Huỳnh Thúc Kháng tại Nghệ Tĩnh và sau đó gia nhập quân đội, học ở trường sĩ quan lục quân Trần Quốc Tuấn. Từ năm 1952 đến 1956, tôi công tác tại Ban tham mưu các tiểu đoàn 722, 706 thuộc sư đoàn 320. Từ năm 1956 đến 1958, tôi là trợ lý văn hóa Trung đoàn 64 thuộc sư đoàn 320. Năm 1961, tôi theo học trường Văn hóa Lạng Sơn. Năm 1962, tôi về công tác tại phòng Văn nghệ quân đội, sau chuyển sang tạp chí văn nghệ Quân đội. Vinh dự năm 1972, tôi được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam. Phóng viên: Nhà văn Nguyên Ngọc đã khẳng định: “Ông là người mở đường tài năng và tinh anh và là nhà văn tiên phong của văn học đổi mới”. Ông có thể nói rõ nguyên nhân nào thôi thúc ông “tiên phong” trên con đường đổi mới văn học sau năm 1975? Nhà văn: Sau năm 1975, văn học Việt Nam trải qua một cuộc chuyển mình dữ dội, không chỉ từ văn học thời chiến sang thời bình, từ văn học sử thi sang văn học thế sự và đời tư, mà trong chiều sâu của nó có sự chuyển động từ văn học tuyên truyền chính trị, phản ánh hiện thực theo phương pháp hiện thực XHCN sang một nền văn học hậu văn học cách mạng, hậu hiện thực XHCN. Bởi từ trong đáy sâu của ý thức, nhiều nhà văn đã nhận ra văn học chính trị và chủ nghĩa hiện thực XHCN đã trói buộc sáng tác quá nhiều và khao khát giải thoát khỏi các trói buộc ấy. Tôi nhận ra những hạn chế của nền văn học thời chiến tranh lúc bấy giờ và chuyển hướng sáng tác, tìm kiếm ra con đường mới cho chính mình. Phóng viên: Ông quan niệm nghệ thuật về con người như thế nào? Nhà văn: Trước năm 1975, tác phẩm của tôi thiên về cảm hứng lãng mạn. Sau năm 1975, tôi chuyển hướng sang cảm hứng thế sự và đời tư. Dù viết theo cảm hứng sáng tác nào, tác phẩm của tôi cũng hướng tới “đi tìm hạt ngọc còn ẩn dấu trong bề sâu tâm hồn con người”. Nhân vật Nguyệt trong truyện ngắn Mảnh trăng cuối rừng là hiện thân đẹp đẽ của quan niệm sáng tác nói trên. Trong tác phẩm, Nguyệt hiện lên trong một vẻ đẹp lí tưởng, hoàn hảo. Người đàn bà trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa có ngoại hình thô kệch, xấu xí nhưng lại hội tụ những phẩm chất tốt đẹp. Đó là người đàn bà thương con; giàu đức hi sinh, giàu lòng vị tha; thấu hiểu lẽ đời. Phóng viên: Thưa nhà văn, ông có suy nghĩ như thế nào về số mệnh của con người trong văn học? Nhà văn: Tôi không thể nào tưởng tượng nổi một nhà văn mà lại không mang nặng trong mình tình yêu cuộc sống và nhất là tình yêu thương con người. Tình yêu này của người nghệ sĩ vừa là một niềm hân hoan say mê, vừa là một nỗi đau đớn khắc khoải, một mối quan hoài thường trực về số phận, hạnh phúc của những người chung quanh mình. Cầm giữ cái tình yêu lớn ấy trong mình, nhà văn mới có khả năng cảm thông sâu sắc với những nỗi đau khổ, bất hạnh của người đời, giúp họ vượt qua những khủng hoảng tinh thần và đứng vững được trước cuộc sống. Phóng viên: Theo ông, người nghệ sĩ cần thực hiện sứ mệnh gì khi cầm bút? Nhà văn: Tôi luôn đòi hỏi rất cao về trách nhiệm của những người cầm bút. Nhà văn tồn tại ở trên đời có lẽ trước hết là vì thế: Để làm công việc giống như kẻ nâng giấc cho những người cùng đường tuyệt lộ, bị cái ác hoặc số phận đen đủi dồn con người ta đến chân tường, những con người cả tâm hồn và thể xác bị hắt hủi và đoạ đầy đến ê chề, hoàn toàn mất hết lòng tin vào con người và cuộc đời, để bênh vực cho những con người không có ai để bênh vực. Đích đến cuối cùng của tác giả và tác phẩm luôn là con người, đặc biệt là những mảnh đời cơ cực đau khổ. Văn học và cuộc sống là những vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm là con người. Phụ lục VII: ĐỀ VÀ ĐÁP ÁN THỰC NGHIỆM ĐỀ BÀI: Trong Nét độc đáo của phong cách Nguyễn Minh Châu, Ngọc Huy viết: “Viết về những người phụ nữ, những người đàn bà lam lũ khổ cực cả đời, Nguyễn Minh Châu không chỉ kiếm tìm, tôn vinh vẻ đẹp, phẩm chất người phụ nữ mà nhà văn còn lí giải cội nguồn vẻ đẹp ấy chính là lòng nhân hậu, đức hạnh, phẩm tiết bám sâu trong tâm hồn, tâm linh con người. Tuy vậy, để hiểu được con người thật khó, đối với phụ nữ càng khó hơn, đặc biệt đối với những người có hoàn cảnh phức tạp, không cho phép ta nhìn nhận hời hợt bên ngoài”. Bằng việc phân tích nhân vật người đàn bà trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa, anh (chị) hãy chứng minh nhận định trên. ĐÁP ÁN VÀ BIỂU ĐIỂM 1. Về kiến thức - Có kiến thức về Nguyễn Minh Châu và văn học thời kì đổi mới (0,5 đ) - Có kiến thức vững vàng, sâu sắc về tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa (3,0 đ) - Có kiến thức về lịch sử, xã hội, văn hoá (0,5 đ) 2.Kĩ năng - Xác định đúng vấn đề nghị luận: Chiếc thuyền ngoài xa là một trong những tác phẩm thể hiện rõ nhất phong cách nghệ thuật Nguyễn Minh Châu thời kì đổi mới. Đặc biệt là nhân vật người đàn bà hàng chài, tiêu biểu cho nhận định của Ngọc Huy. (1,0 đ) - Bài làm đủ 3 phần: Mở bài giới thiệu được vấn đề nghị luận; Thân bài được triển khai thành nhiều luận điểm làm sáng tỏ luận đề; Kết bài khái quát được vấn đề và thể hiện được nhận thức của cá nhân. (1,0 đ) - Biết cách tổ chức bài thành các luận điểm phù hợp: các luận điểm được triển khai theo trình tự hợp lí, có sự liên kết chặt chẽ; sử dụng tốt các thao tác lập luận, biết kết hợp giữa nêu lí lẽ và đưa dẫn chứng. (1,0 đ) - Đề xuất các đánh giá hợp lí trên cơ sở vận dụng kiến thức văn học, tiếng Việt, làm văn và kinh nghiệm sống của cá nhân. (1,5 đ) 3.Về thái độ - Hào hứng, nghiêm túc trong khi phản biện (thể hiện trong cách diễn đạt, trình bày, sự sáng tạo) 1,0đ - Cầu thị, khiêm tốn, có văn hoá trước ý kiến của người khác (thể hiện trong cách đánh giá các ý kiến) 0,5đ Lưu ý: HS có thể triển khai theo các cách khác nhau; bày tỏ ý kiến riêng, miễn là lập luận phải có tính thuyết phục. Sau đây là một hướng triển khai: Ý ĐÁP ÁN 1 Giới thiệu chung về tác giả, tác phẩm 2 Giải thích: - Vẻ đẹp hình tượng người đàn bà hàng chài. - Tử tưởng của nhà văn: Không thể nhìn con người một cách hời hợt bên ngoài, đằng sau cái lam lũ khổ cực của cuộc sống là một tâm hồn, một phẩm chất đáng quý, đáng trân trọng. 3 Phân tích, chứng minh - Cuộc đời,số phận của người đàn bà hàng chài + Là một người lao động vất vả, lam lũ ở làng vạn chài. + Là một người phụ nữ đau khổ, nạn nhân đáng thương của sự lạc hậu, đói nghèo( đông con, đói nghèo, thường xuyên bị chồng đánh đập..) - Phẩm chất, Tính cách + Nhẫn nhục, chịu đựng: Thường xuyên bị chồng đánh đập một cách tàn nhẫn, nhưng người đàn bà không hề khóc than, không van xin cũng không chống trả. Thậm chí, người đàn bà còn chị xin chồng lên bờ đánh để những đứa con không phải chứng kiến cảnh đó. + Giàu tình yêu thương Sự cam chịu, nhẫn nhịn của người đàn bà có cội rễ từ tình yêu thương con vô bờ bến. Thương con, chị không muốn con khổ cực nên nhẫn nhục chịu đựng để vun vén cho mái ấm gia đình + Vị tha, bao dung, giàu đức hi sinh : Người đàn bà không nghĩ đến bản thân, không quan tâm đến nỗi vất vả, khổ cực cũng như nỗi đau bị đánh đập hằng ngày. Cái chị đau đáu chính là con cái được ăn no, có một gia đình đầy đủ (đàn bà trên thuyền chúng tôi phải sống cho con, không thể sống cho mình như trên đất được). Bị người chồng đánh đập mà vẫn không hề căm giận, oán trách hay muốn trả mối hận. Thậm chí còn tự nguyện chấp nhận bị hành hạ để chia sẻ với nỗi khổ của chồng. Chị nhận mọi lỗi lầm về mình, luôn sống vì chồng, vì con. + Nâng niu, chắt chiu hạnh phúc gia đình : Trong cuộc sống vất vả, cùng cực, người đàn bà vẫn biết chắt chiu những nguồn hạnh phúc ít ỏi trong cuộc sống (ở trên chiếc thuyền cũng có lúc vợ chồng con cái chúng tôi sống hòa thuận, vui vẻVui nhất là lúc ngồi nhìn con tôi chúng nó được no...) + Là một người sâu sắc, thấu hiểu lẽ đời. Khi chánh án Đẩu khuyên người đàn bà bỏ chồng, chị đã thể hiện sự sâu sắc của một người đã nếm trải những khó khăn, vất vả của cuộc đời, thấu suốt những uẩn khúc của những con người (Là bởi vì các chú không phải là đàn bà, chưa bao giờ các chú biết như thế nào là nỗi vất vả của người đàn bà trên một chiếc thuyền không có đàn ông.. Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở trên đất được.) * Nghệ thuật xây dựng nhân vật. + Ngôn ngữ gần gũi, đời thường . + Sáng tạo tình huống truyện độc đáo. + Mở rộng điểm nhìn trần thuật. + Thủ pháp đối lập (giữa ngoại hình và nội tâm, giữa một số phận bất hạnh và tấm lòng nhân hậu, bao dung..) 4 Đánh giá - Khẳng định ý kiến trên hoàn toàn đúng đắn. - Qua hình ảnh người đàn bà, tác giả bộc lộ niềm thương cảm, thấu hiểu, chia sẻ trước số phận của kiếp người đói nghèo, bế tắc bị cầm tù trong những nỗi đau thể xác và tinh thần; phát hiện những vẻ đẹp đời thường mà nhân văn trong mỗi con người. - Đồng thời, thể hiện cách nhìn mới mẻ về cuộc sống : cuộc sống không đơn giản, xuôi chiều mà luôn có những mặt đối lập, những nghịch lí. Vì vậy, khi nhìn nhận cuộc sống phải có cái nhìn đa chiều, đa diện để khám phá đầy đủ giá trị cuộc sống. - Góp phần khẳng định vai trò, vị trí của tác giả: Nguyễn Minh Châu là người tiên phong tinh anh và tài năng trong công cuộc đổi mới văn học. - Khơi gợi sự đồng cảm, thấu hiểu, chia sẻ từ người đọc. Thang điểm Điểm 9 - 10: Có kiến thức chắc chắn, sâu sắc về tác giả, tác phẩm, các luận điểm rõ ràng, giàu sức thuyết phục, cách diễn đạt trong sáng, mạch lạc, sáng tạo, có nhiệt huyết trong khi nghị luận. Điểm 7- 8: Có kiến thức khá sâu sắc về tác giả, tác phẩm, trình bày luận điểm rõ ràng, tương đối hợp lý, cách diễn đạt trong sáng, mạch lạc, ít sai các loại lỗi . Điểm 5 - 6: Hiểu tác phẩm nhưng chưa sâu sắc, các luận điểm chưa rõ ràng, các lập luận thiếu tính thuyết phục, diễn dạt còn nhiều hạn chế. Điểm 3 - 4: Kể lể về tác phẩm, không biết cách tổ chức bài viết thành các luận điểm, lập luận thiếu căn cứ, mắc nhiều lỗi diễn đạt. Điểm dưới 3: Không hiểu đề, viết không có định hướng, sơ sài, mắc nhiều lỗi diễn đạt. Phụ lục VIII: MỘT SỐ BÀI VIẾT CỦA HỌC SINH
File đính kèm:
skkn_van_dung_phuong_phap_tranh_luan_trong_day_hoc_doc_hieu.pdf